(LSVN) – Một trong năm quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 66-NQ/TW (“Nghị quyết”) đã xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” để hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Ban tổ chức đã chọn hội thảo về Nghị quyết này với chủ đề “Đột phá về tư duy xây dựng và thi hành pháp luật” đã làm rõ bản chất của đổi mới phải bắt đầu từ khâu đột phá về tư duy, vì tư duy là biểu hiện của quá trình nhận thức, là nguồn cội mọi hoạt động của con người trong đời sống xã hội nói chung, trong xây dựng và thi hành pháp luật nói riêng. Đổi mới tư duy chính là đổi mới cách suy nghĩ, tiếp cận và đánh giá thực tại mang tính sáng tạo, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội.
Nội dung của Nghị quyết về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật rất rộng. Với kinh nghiệm nhiều năm hoạt động luật sư trong lĩnh vực tư pháp hình sự, tôi xin trình bày ý kiến của mình về “Đổi mới tư duy trong hoạt động tư pháp hình sự” qua các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử của tố tụng hình sự mà trọng tâm là đổi mới tư duy về nguyên tắc “Suy đoán vô tội” với hy vọng làm rõ được phần nào về khái niệm đổi mới tư duy trong lĩnh vực này.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Đổi mới tư duy trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc “Suy đoán vô tội”
Vì sao phải đổi mới tư duy về nguyên tắc “suy đoán vô tội”
Quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước – thông qua các chủ thể tố tụng hình sự như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán…hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước – với các chủ thể tham gia tố tụng khác, trong đó có bị can, bị cáo. Trong quan hệ này, bị can, bị cáo luôn là người yếu thế, chịu sự chi phối của quyền lực, dễ là nạn nhân của sự lạm quyền, vượt quyền từ các chủ thể nhân danh quyền lực. Để bảo đảm cho các chủ thể yếu thế có thể bảo vệ được mình, tố tụng hình sự quy định rất cụ thể các quyền và nghĩa vụ của họ và ở chiều ngược lại, cũng quy định rất rõ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể nhân danh quyền lực. Bộ luật TTHS quy định 27 nguyên tắc cơ bản của TTHS (Điều 7 – Điều 33), trong đó nguyên tắc “Suy đoán vô tội” là một nguyên tắc quan trọng áp dụng cho các chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước, để bảo vệ quyền của các bị can, bị cáo trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. Nguyên tắc này có ý nghĩa như là căn cứ để bảo đảm có hiệu quả các nguyên tắc khác trong hoạt động tố tụng hình sự.
Xét về nguồn gốc, tinh thần của nguyên tắc này xuất hiện từ thời La Mã cổ đại và được các triều đại La Mã áp dụng trong quá trình xét xử hình sự, xác định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Bị cáo luôn được coi là vô tội.
Ở nước ta, tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được hiến định tại khoản 1, Điều 31 Hiến pháp 2013 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” . Và lần đầu tiên Bộ luật TTHS năm 2015 đã xác định “Suy đoán vô tội” thành một nguyên tắc trong hệ thống những nguyên tắc cơ bản của TTHS tại Điều 13:
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” (Điều 13).
Nguyên tắc này có mối quan hệ với các nguyên tắc khác trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có quan hệ mật thiết với nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” được quy định tại Điều 15:
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” có ý nghĩa bổ trợ trực tiếp cho nguyên tắc “Suy đoán vô tội”, xác định rõ về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể tiến hành tố tụng trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án.
Về bản chất, nguyên tắc suy đoán vô tội xác lập nghĩa vụ chứng minh việc phạm tội là thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, các điều tra viên, kiểm sát viên… Bị can, bị cáo có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội. Vì họ không có nghĩa vụ chứng minh đó nên họ có quyền im lặng khi bị bắt, bị hỏi cung khi chưa có mặt của luật sư bào chữa nếu buộc họ phải khai không đúng sự thật.Tinh thần cốt lõi của nguyên tắc này là: Khi tạm giữ, khởi tố điều tra, truy tố và xét xử một người bị tình nghi phạm tội, hoặc họ đã trở thành bị can, bị cáo trong vụ án hình sự thì trong tâm thức của những người tiến hành tố tụng phải coi họ là người không có tội và thực sự mong muốn họ là người không có tội, nhưng vì những chứng cứ thu thập được là những bằng chứng hoàn toàn chống lại họ, không có bất kỳ một chứng cứ nào cho thấy họ vô tội, nên buộc lòng phải kết luận và quyết định truy tố, xét xử họ về tội đã phạm. Việc kết tội là hệ quả của các bằng chứng rõ ràng về hành vi phạm tội của họ mà không thể nào khác được.
Mặc dù tinh thần và nội dung của nguyên tắc “Suy đoán vô tội” đã được hiến định và luật định như vậy, nhưng trong thực tiễn áp dụng, nguyên tắc này lại không được nhận thức và thực hiện một cách đầy đủ, triệt để trong thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Những người được phân công các nhiệm vụ này hình như lại bị chi phối bởi một lối tư duy là phải chứng minh cho được người bị tình nghi hoặc bị can, bị cáo đã phạm tội rồi, chứ không phải chứng minh là họ có phạm tội hay không. Từ nhận thức này nên các hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đều nhằm mục đích chứng minh việc phạm tội của họ. Khi đã chứng minh được họ phạm tội thì coi như các cán bộ này đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, được tính thành tích, mà lẽ ra, khi bắt , khởi tố điều tra, truy tố và xét xử một người mà xác định người đó không có tội, mới là chỉ số tính thành tích cao nhất, tốt nhất của việc thực thi công lý, vì đã minh oan được cho số phận một con người. Điều này là cốt tử đối với những người đối diện với án tử mà thực ra là họ bị oan sai. Thực trạng này đã và đang là vấn đề nhức nhối trong việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật nhà nước.
Đổi mới tư duy về nguyên tắc “Suy đoán vô tội” như thế nào?
Trước hết là phải đổi mới về nhận thức và thực hiện nguyên tắc này trong hoạt động tố tụng hình sự, dựa trên các nền tảng tư tưởng sau đây:
– Nhận thức về pháp quyền hiện đại: Pháp luật không chỉ là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà là nền tảng bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Pháp luật tố tụng hình sự phải dựa trên nền tảng bảo vệ các quyền ấy cho bị can, bị cáo trên cơ sở nhận thức họ là những người chưa bị coi là có tội cho đến khi có bản án có hiệu lực của toà án được chứng minh một cách khách quan, đúng đắn theo luật định, phù hợp với tư duy pháp quyền hiện đại đề cao tính tối thượng của Hiến pháp, bảo đảm mọi cơ quan và cá nhân đều phải triệt để tuân thủ.
– Từ tư duy trừng phạt sang tư duy bảo vệ: Quan niệm truyền thống mặc dù cũng đề cao tính nhân đạo, nhưng vẫn còn thiên về nhận thức pháp luật hình sự là công cụ trừng phạt người phạm tội, coi sự trừng phạt là để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tư pháp hình sự tiến bộ coi trọng việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, không để mục tiêu xử lý vi phạm lấn át nguyên tắc nhân đạo. Khái niệm bảo vệ trong tư duy mới này chính là bảo vệ công lý, lẽ phải thông qua việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người, các quyền hợp pháp của công dân. Khi đã đạt được mục đích bảo vệ như thế thì việc trừng phạt mới có ý nghĩa giáo dục thiết thực.
– Tư duy hội nhập và chuẩn mực quốc tế: Việc đổi mới tư duy trong hoạt động tư pháp hình sự cần tiếp thu, hài hòa với các công ước quốc tế về chống tội phạm, các án lệ tiến bộ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và bảo vệ quyền con người và quyền công dân ở phạm vi toàn cầu.
Dựa trên các nền tảng này, việc đổi mới tư duy trong hoạt động tư pháp có các biểu hiện sau đây:
– Chuyển nhận thức cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án từ “công cụ quản lý của Nhà nước trong phòng chống tội phạm” sang vị trí là các cơ quan thực hiện “dịch vụ công lý”. Các cơ quan tư pháp này phải được nhìn nhận là nơi bảo vệ công lý, phục vụ công dân trong việc bảo vệ các quyền con người, không chỉ là cánh tay thực thi quyền lực Nhà nước mang ý nghĩa trừng phạt các công dân phạm tội.
– Đề cao tố tụng tranh tụng, tiến tới thay đổi cơ chế tố tụng xét hỏi, bảo đảm thực sự quyền bình đẳng giữa hai bên buộc tội và gỡ tội. Tư duy mới cần nhận thức tranh tụng không phải là hình thức mà chính là linh hồn của xét xử, bảo đảm phán quyết của toà án dựa trên các lập luận, chứng cứ khách quan, có sức thuyết phục. Phiên toà là một cuộc điều tra công khai chứ không phải là nơi công bố kết quả điều tra và truy tố trong hồ sơ vụ án.
– Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tố tụng điều tra, truy tố và xét xử: Tính minh bạch đòi hỏi các chủ thể tiến hành tố tụng phải chịu sự giám sát của công luận. Ở đây có khía cạnh cần chú ý là phải hạn chế tình trạng “xử lý truyền thông” trước khi xử lý bằng pháp luật. Trách nhiệm giải trình phải tuân thủ cơ chế giải trình rõ ràng, thay vì xử lý nội bộ khép kín.
Giải mã oan sai trong tố tụng hình sự từ nguyên tắc “Suy đoán vô tội”
Oan sai trong tố tụng hình sự cho thấy việc vi phạm nguyên tắc “Suy đoán vô tội” có thể có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là các hiện tượng mớm cung, bức cung, nhục hình bị can. Trong tham luận này, tôi chỉ đi sâu về hiện tượng bức cung, nhục hình. Cần phải khẳng định rằng, bức cung, nhục hình là những hành vi bị cấm trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Bộ luật TTHS 2015, Điều 183, Khoản 5 đã quy định “ Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự”.
Nói về thực tế này, có ý kiến cho rằng đây là biện pháp “nghiệp vụ” cần thiết của điều tra viên trong hoạt động điều tra tội phạm đối với các đối tượng phạm tội ngoan cố hoặc khiêu khích…nên cũng có những tác dụng nhất định (!).
Các điều tra viên đã được đào tạo bài bản về nghiệp vụ điều tra, các kỹ năng hỏi cung… Trong thực tế, vẫn có những đối tượng phạm tội tỏ ra chai lì, có kinh nghiệm, bản lĩnh đối phó với các biện pháp nghiệp vụ điều tra, khiến các điều tra viên lúng túng. Thực ra, về mặt chứng cứ, bản cung cũng chỉ là một trong nhiều nguồn chứng cứ của tố tụng hình sự, thậm chí luật quy định rõ lời khai nhận tội của bị can cũng không phải là chứng cứ để kết tội, nếu lời khai đó không phù hợp với các nguồn chứng cứ khác. Hoạt động điều tra thu thập chứng cứ, đâu phải duy nhất chỉ có lấy cung các đối tượng, chỉ cần họ nhận tội là xong?
Vậy vì sao lại có hiện tượng bức cung, nhục hình xảy ra?
Đã có các ý kiến lý giải về nguyên nhân của hiện tượng này, theo suy nghĩ của tôi có các nguyên nhân sau đây:
– Tâm lý bức xúc, nôn nóng của điều tra viên trước sự thúc ép về thời hạn điều tra phải kết thúc điều tra vụ án để tính thành tích;
– Sự bực bội dẫn đến giận giữ của điều tra viên khi gặp các đối tượng ngoan cố mà theo quan niệm của điều tra viên, đã có các bằng chứng kết tội, chỉ cần lời khai nhận tội của bị can là kết thúc hồ sơ điều tra;
– Trình độ nghiệp vụ điều tra non kém, không thông thạo các nghiệp vụ điều tra như hỏi cung, các biện pháp đấu tranh với đối tượng phạm tội;
– Thiếu các phương tiện, biện pháp giám sát cuộc điều tra như: Ghi âm, ghi hình, sự quản lý, theo dõi của cán bộ quản lý trại tạm giam, tạm giữ; sự tham gia ngay từ đầu và sự có mặt của luật sư trong các buổi hỏi cung… khiến cho điều tra viên có thể tự mình thực hiện bức cung, nhục hình mà không bị phát hiện.
– Và cuối cùng là đạo đức của điều tra viên trong quan hệ giữa một người có quyền với một đối tượng yếu thế, bị chế ước bởi quyền lực.
Bức cung, nhục hình là có thật và đang là tiếng chuông cảnh báo trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. Những vụ bức cung, nhục hình đã bị xử lý chỉ là những vụ đã gây hậu quả, không thể lẩn tránh được, buộc phải xử lý. Còn trong thực tế, có bao nhiêu vụ bức cung, nhục hình đã xảy ra và được bị cáo khai trước tòa để phản cung, nhưng tòa không công nhận vì họ đã không chứng minh được ? Đây là điều cần đặc biệt lưu tâm, vì như vậy là Tòa đã buộc bị cáo phải có nghĩa vụ chứng minh lời khai của mình, trái với quy định về nghĩa vụ chứng minh trong Bộ luật Tố tụng hình sự.
Oan, sai cũng có thật. Một trong những nguyên nhân dẫn đến oan, sai là do bị can bị bức cung, nhục hình, buộc phải nhận tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội đã không được thể hiện đúng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử. Các điều tra viên, kiểm sát viên và cả thẩm phán còn mang nặng tâm lý và nhận thức theo hướng “suy đoán có tội” trong nhiều trường hợp thiếu các chứng cứ khác, đã đặt nặng nguồn chứng cứ là các lời khai nhận tội của bị can để kết tội họ. Đây là một thực trạng cần phải tổ chức nhiều cuộc hội thảo để mổ xẻ, tìm ra nguyên nhân và các giải pháp khắc phục cho hiện trạng này.
Các giải pháp để khắc phục hiện tượng bức cung, nhục hình nằm ở ngay các nguyên nhân sản sinh ra nó. Đó có thể là:
– Phải giáo dục cho các điều tra viên hiểu biết sâu sắc về bản chất nguyên tắc suy đoán vô tội trong hoạt động điều tra; không nên giao chỉ tiêu và thành tích cho họ phải chứng minh bằng được tội phạm trong thời hạn điều tra để thúc ép họ;
– Chăm lo đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra cho các điều tra viên, kiên quyết không phân công những điều tra viên yếu kém về nghiệp vụ để điều tra các vụ án phức tạp trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ;
– Giáo dục đạo đức, thái độ người điều tra viên trong quan hệ với người bị tình nghi phạm tội, bị can;
– Phải trang bị cho Nhà tạm giữ, tạm giam… các phương tiện ghi hình, ghi âm và giao cho Ban giám thị, cán bộ quản giáo quản lý, sử dụng các phương tiện này và lưu trong hồ sơ tạm giữ, tạm giam một cách trung thực để làm bằng chứng khi có khiếu nại của bị can, bị cáo.
– Quy định trách nhiệm cho cán bộ Nhà tạm giữ, tạm giam, khi có hiện tượng bức cung, nhục hình xảy ra trong thời gian tạm giữ, tạm giam đối tượng để điều tra trong giai đoạn tiền khởi tố hoặc khởi tố bị can để điều tra. (Ở Trung Quốc, hệ thống trại tạm giam đã được chuyển giao về cho Bộ Tư pháp quản lý từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20).
– Thực hiện nghiêm các quy định của Bộ luật TTHS trong việc nâng cao vị trí, vai trò của người bào chữa, tạo điều kiện để luật sư tham gia đầy đủ các giai đoạn trước và trong điều tra vụ án. Hiện nay, Bộ luật TTHS đã có hẳn một chương về bào chữa mà những nội dung của chương này đã được thể hiện khá đầy đủ tinh thần của yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao vị thể của người bào chữa trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn tố tụng điều tra.
Ai cũng biết oan, sai là hiện tượng đã và đang xảy ra trong hoạt động tố tụng hình sự, có nguyên nhân từ hiện tượng bức cung, nhục hình, tức là có sự vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “Suy đoán vô tội” trong Bộ luật TTHS. Vì vậy, làm thế nào để tránh hoặc hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai đang là câu hỏi nhức nhối còn treo trước mắt chúng ta.
Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ nguyên tắc “Suy đoán vô tội”
Đổi mới hoạt động tư pháp hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lĩnh vực này gắn liền trực tiếp đến quyền tự do thân thể, tính mạng, danh dự và nhân phẩm của công dân.Vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp hình sự đươc ghi nhận rất cụ thể. Ngay từ năm 2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử”. Trong tiến trình đó, luật sư không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mà còn là chủ thể góp phần bảo đảm công lý, nâng cao chất lượng tranh tụng và phòng ngừa oan sai.
Cơ sở pháp lý xác định vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự được quy định rõ trong Hiến pháp 2013 tại các điều như: Điều 31: Quyền được bào chữa, quyền được nhờ luật sư bảo vệ, Điều 103: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 tại các điều như: Điều 26: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Điều 72, 73: Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa; trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) – Điều 14, bảo đảm quyền xét xử công bằng, quyền có luật sư…
Có thể nhận thấy, trong việc bảo vệ nguyên tắc “Suy đoán vô tội” luật sư có các vai trò sau đây:
Bảo vệ quyền con người, giúp nguyên tắc “Suy đoán vô tội” được tôn trọng
Sự tham gia của luật sư ngay từ giai đoạn điều tra giúp đảm bảo quyền không tự buộc tội và quyền im lặng. Sự có mặt của luật sư sẽ giúp bị can, bị cáo biết được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, là chỗ dựa về mặt tâm lý cho người yếu thế, hạn chế được các vi phạm tố tụng về nguyên tắc “Suy đoán vô tội” từ phía người tiến hành tố tụng so với các vụ án không có luật sư tham gia. Báo cáo của Bộ Công an (2023) cho thấy, ở các vụ án có luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra, tỷ lệ khiếu nại về vi phạm tố tụng giảm hơn 20% so với các vụ án không có luật sư.
Thúc đẩy tranh tụng thực chất
Luật sư là đối trọng pháp lý của kiểm sát viên thực hành quyền công tố, buộc tòa án phải xem xét khách quan mọi chứng cứ, tránh được những phiên toà hình thức diễn tiến theo kiểu một chiều, gây bất lợi cho người bị buộc tội. Trong vụ án Huỳnh Văn Nén, lập luận pháp lý của luật sư về chứng cứ ngoại phạm và yêu cầu giám định bổ sung đã góp phần quyết định việc minh oan sau hơn 17 năm tù oan.
Giám sát hoạt động tố tụng.
Trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, hoạt động tác nghiệp của luật sư còn có ý nghĩa giám sát đối với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Luật sư sẽ có những ý kiến phản biện, kiến nghị loại bỏ chứng cứ trái pháp luật, yêu cầu điều tra bổ sung khi có dấu hiệu bỏ lọt chứng cứ, tự mình thu thập và cung cấp chứng cứ cho cơ quan tiến hành tố tụng; khiếu nại các hành vi vi phạm pháp luật từ người, cơ quan tiến hành tố tụng, bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo. Báo cáo của Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2022) ghi nhận hơn 300 kiến nghị của luật sư đã được cơ quan tố tụng tiếp thu, qua đó khắc phục sai sót hồ sơ.
Phòng chống oan sai
Thực tiễn cho thấy, các vụ án có luật sư tham gia, với kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của mình, luật sư đã góp phần hạn chế phần nào các hiện tượng oan sai. Vụ án Nguyễn Thanh Chấn (Bắc Giang) là minh chứng điển hình: luật sư kiên trì điều tra song song, thu thập chứng cứ mới, phối hợp với báo chí, đã giúp giải oan cho ông sau 10 năm tù.
Để bảo đảm có hiệu quả vai trò của luật sư trong hoạt động tư pháp hình sự, đặc biệt là bảo vệ nguyên tắc “Suy đoán vô tội”, thiết nghĩ cần phải có các biện pháp sau đây:
Thứ nhất, cần hoàn thiện pháp luật theo hướng mở rộng quyền của luật sư được tiếp cận hồ sơ ngay sau khởi tố bị can, chứ không phải chỉ sau khi kết thúc điều tra hồ sơ vụ án như quy định hiện hành; mở rộng phạm vi các vụ án bắt buộc phải có luật sư tham gia, để bảo đảm triệt để nguyên tắc “Suy đoán vô tội”.
Thứ hai, có các biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư như: Đào tạo kỹ năng tranh tụng, điều tra, tâm lý học hình sự, nâng cao đạo đức nghề nghiệp luật sư; Hợp tác quốc tế về đào tạo luật sư…
Thứ ba, cần đổi mới văn hóa tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem luật sư là đối tác bình đẳng, cùng chung mục đích tìm ra sự thật khách quan, khắc phục tâm lý của người tiến hành tố tụng ngại luật sư, coi luật sư như một lực lượng cản trở việc điều tra vụ án và tìm cách gây khó khăn cho hoạt động luật sư.
Thứ tư, cần ứng dụng công nghệ trong việc quản lý hồ sơ vụ án điện tử, cho phép luật sư tra cứu trực tuyến hoặc làm thủ tục tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa của bị can, bị cáo.
Cuối cùng, bản thân từng luật sư cũng cần nhận thức rõ trong tư duy về nghề luật sư không đơn thuần chỉ là một nghề nghiệp để mưu sinh mà cao hơn còn là một sứ mệnh cao cả, đòi hỏi phải có bản lĩnh nghề nghiệp, lòng dũng cảm trong sự nghiệp bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
Lời kết
Đổi mới tư duy trong hoạt động tư pháp hình sự, trong đó có nguyên tắc “Suy đoán vô tội” là một yêu cầu khách quan, bức thiết về đột phá tư duy pháp lý trong xây dựng và thi hành pháp luật theo tinh thần Nghị quyết 66 hiện nay. Trong khâu đột phá này, Luật sư có vai trò là người gác cửa công lý, bảo đảm sự cân bằng quyền lực giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Đổi mới hoạt động tư pháp hình sự chỉ thành công khi các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực sự đổi mới tư duy trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc “Suy đoán vô tội” để vai trò luật sư được bảo đảm cả về pháp lý và thực tiễn. Tôn trọng và nâng cao vị trí, vai trò của luật sư là một điều kiện để củng cố niềm tin của nhân dân vào nền tư pháp, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, từng bước hội nhập quốc tế về phòng chống tội phạm trong phạm vi toàn cầu.
Tài liệu tham khảo:
(1) Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
(2) Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
(3) ICCPR – Điều 14.
(4) Báo cáo Bộ Công an năm 2023.
(5) Hồ sơ vụ án Huỳnh Văn Nén – TAND tỉnh Bình Thuận.
(6) Báo cáo tổng kết năm 2022 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.
Luật sư NGUYỄN MINH TÂM





