Đoàn kết toàn dân: Nền tảng chiến lược trong đại cách mạng thể chế quốc gia vì dân, do dân, vì sự phát triển phồn vinh của Tổ quốc

(LSVN) – Bài viết luận giải vai trò mang tính chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc cải cách thể chế quốc gia hiện nay. Từ cách tiếp cận thể chế – chính trị – luật học, tác giả phân tích đoàn kết không chỉ là giá trị truyền thống hay khẩu hiệu tuyên truyền mà cần được tổ chức lại dưới hình thái pháp lý, chính sách công và cải cách cơ cấu quyền lực. Trong thời đại chuyển đổi số và dân chủ hóa toàn diện, đoàn kết phải gắn liền với cải cách bộ máy, xây dựng chính quyền số, loại bỏ tầng nấc hành chính trung gian gây chia cắt niềm tin. Đây là điều kiện quyết định để biến tiềm lực con người thành động lực phát triển bền vững của quốc gia.

Đoàn kết – từ giá trị truyền thống đến động lực thể chế hóa sức mạnh Nhân dân trong đại cải cách quốc gia

Trong dòng chảy phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là một giá trị truyền thống quý báu, mà còn là một động lực có tính quyết định trong kiến tạo thể chế phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, mọi thắng lợi vĩ đại – từ Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống ngoại xâm đến công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước – đều bắt nguồn từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người khai sáng nền tư tưởng cách mạng Việt Nam hiện đại – đã từng khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [1].

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay – khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu đổi mới đồng bộ thể chế chính trị, thể chế kinh tế và thể chế văn hóa – xã hội, thì đoàn kết không thể chỉ tiếp tục tồn tại như một phạm trù đạo đức hay khẩu hiệu tuyên truyền mà cần được tái định vị như một trụ cột tổ chức của thiết kế thể chế quốc gia, mang tính chiến lược và thực thi. Đoàn kết, trong thời đại xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và chính quyền số, phải trở thành động lực chính trị – pháp lý thúc đẩy cải cách hành chính, minh bạch hóa quyền lực và tăng cường vai trò làm chủ của Nhân dân trong hoạch định, giám sát và thực thi chính sách công. Nói cách khác, khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải được thể chế hóa bằng luật pháp, bằng chính sách công cụ thể và bằng một thiết chế quyền lực phục vụ Nhân dân một cách thực chất.

Không thể hình dung một quốc gia dân chủ, pháp quyền và hiện đại nếu người dân chỉ là “đối tượng” thụ hưởng chính sách, chứ không phải là “chủ thể kiến tạo” của chính sách. Một nhà nước “do dân, của dân, vì dân” – như Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định tại Điều 2 – không chỉ được xây dựng bằng những văn bản hiến định mà cần được vận hành bởi cơ chế pháp lý bảo đảm người dân có quyền tham gia vào mọi tiến trình lập pháp, hành pháp và tư pháp của đất nước [2]. Vì vậy, đoàn kết trong bối cảnh đổi mới thể chế quốc gia không thể chỉ là sự đồng thuận tinh thần mà phải được tổ chức lại dưới dạng thiết chế – nơi mà tinh thần đoàn kết chuyển hóa thành các công cụ quản trị xã hội và phát triển quyền lực Nhân dân.

Mới đây, trong bài viết “Sức mạnh của đoàn kết” đăng trên Tạp chí Cộng sản (tháng 07/2024), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã khẳng định một cách sâu sắc rằng: “Đoàn kết không chỉ là sự gắn bó, đồng thuận về tình cảm, lý tưởng, mà còn là sự tổ chức, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và Nhân dân” [3]. Nhận định này không chỉ là một phát biểu chính trị, mà là chỉ đạo có tính định hướng cải cách, đặt ra yêu cầu nâng cấp nhận thức về đoàn kết từ cấp độ tư tưởng sang cấp độ thiết chế. Theo đó, đoàn kết cần được “tổ chức, bảo đảm và thúc đẩy” bằng ba trụ cột chủ yếu: (1) pháp luật và thể chế dân chủ; (2) bộ máy hành chính công minh, hiệu quả; và (3) hệ giá trị văn hóa chính trị phục vụ Nhân dân.

Điều đó có nghĩa rằng, trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số toàn diện, đoàn kết không thể tự vận hành bằng niềm tin và đạo lý truyền thống đơn thuần, mà cần có “hạ tầng thể chế” đủ mạnh để gắn kết các chủ thể trong xã hội. Đoàn kết phải có địa chỉ pháp lý, có hành lang chính sách, và có cơ chế tương tác chính trị – xã hội hiệu quả. Đó là lý do vì sao Đảng ta xác định rất rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4].

Như vậy, vấn đề cốt lõi đặt ra hiện nay không phải là “có cần đoàn kết hay không”, mà là cần tổ chức đoàn kết như thế nào trong một kiến trúc thể chế mới, nơi người dân không chỉ là nền tảng mà là động lực; không chỉ là “chủ nhân danh nghĩa” mà là “người sở hữu thực chất” của quyền lực công. Và muốn vậy, chính thể chế phải đổi mới – đổi mới để gần dân hơn, để minh bạch hơn, để trao quyền và tin dân nhiều hơn. Từ đó, đoàn kết toàn dân trở thành nền tảng chiến lược của đại cách mạng thể chế quốc gia, không chỉ “vì dân” mà còn “do dân kiến tạo”, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển phồn vinh, bền vững và hùng cường trong thế kỷ XXI.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Cơ sở lý luận: Đoàn kết như một cấu phần tổ chức của thể chế quốc gia

Khái niệm “đoàn kết” dưới góc nhìn thể chế – luật học: Từ giá trị đạo lý đến cấu trúc quyền lực

Trong khoa học chính trị – pháp lý hiện đại, “đoàn kết” không còn được hiểu đơn thuần như một phạm trù luân lý – đạo đức, mà ngày càng được tiếp cận như một thành tố cấu trúc có chức năng ổn định hóa và phát triển hóa hệ thống thể chế quốc gia. Đoàn kết, xét trên nền tảng lý luận luật học và quản trị công, là một “thể chế mềm” – tức là một cấu trúc tổ chức phi vật thể nhưng có ảnh hưởng quyết định đến cách vận hành của hệ thống chính trị – hành chính và sự tương tác giữa Nhà nước với công dân [5]. Trong một nhà nước pháp quyền dân chủ hiện đại, đoàn kết dân tộc là điều kiện tiên quyết để kiến tạo sự đồng thuận xã hội, gia tăng năng lực điều hành chính sách công, và là cơ sở hình thành niềm tin vào thể chế.

Theo lý luận quản trị công mới (New Public Governance), sự đoàn kết – đồng thuận xã hội là yếu tố cấu thành nên tính chính danh (legitimacy) của nhà nước hiện đại. Nếu chính quyền không thể thiết lập hoặc duy trì được khối liên kết xã hội rộng lớn và bền vững với người dân – thông qua đối thoại, chia sẻ lợi ích, minh bạch thông tin, và đảm bảo công lý – thì hệ thống chính trị dễ rơi vào trạng thái mất ổn định, mất niềm tin và suy giảm năng lực quản trị [6]. Vì vậy, đoàn kết không còn là sự kêu gọi về mặt tinh thần mà phải được “thể chế hóa” – institutionalized thông qua các đạo luật nền tảng, các chính sách công công bằng, hệ thống tham vấn và phản biện xã hội có hiệu quả, cũng như một nền hành chính công minh, tận tụy và có trách nhiệm giải trình.

Trong cấu trúc thể chế, đoàn kết là sự hòa hợp giữa các nhóm xã hội, các cộng đồng lợi ích, các tầng lớp dân cư thông qua một khuôn khổ chính sách công và luật pháp nhất quán, công bằng và bao trùm. Đó là sự cân bằng động giữa đa dạng và đồng thuận, giữa khác biệt và thống nhất, giữa quyền lực nhà nước và quyền của người dân. Một quốc gia không thể duy trì ổn định chính trị lâu dài nếu không xử lý được các mâu thuẫn, bất bình đẳng hoặc đứt gãy niềm tin thông qua những thể chế đoàn kết có tính tổ chức cao. Chính vì thế, đoàn kết trở thành cấu phần không thể tách rời của cấu trúc quyền lực, gắn với yêu cầu minh bạch hóa quản trị, dân chủ hóa tiến trình chính sách, và phân quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định một cách sâu sắc và có tính hệ thống trong bài viết “Sức mạnh của đoàn kết” (2024) rằng: “Đoàn kết là sự tích hợp lực lượng vật chất, trí tuệ và đạo lý của dân tộc thành một khối vững chắc, không chỉ trong kháng chiến mà trong cả xây dựng phát triển đất nước thời bình” [7]. Đây là một luận điểm mang tính lý luận và chỉ đạo chiến lược, mở rộng định nghĩa đoàn kết từ tinh thần tự nhiên sang thiết chế vận hành. Theo tinh thần đó, đoàn kết không thể tiếp tục là một “thực thể phi cấu trúc”, mà cần được tổ chức lại như một hệ thống pháp lý – chính trị đồng bộ, nơi mỗi cá nhân, cộng đồng đều có địa vị pháp lý rõ ràng, có không gian tham gia chính trị, có cơ chế phản hồi và có quyền đồng kiến tạo chính sách. Như vậy, đoàn kết trở thành một cấu trúc vận hành của quyền lực nhà nước, là sợi dây liên kết giữa Nhân dân với hệ thống chính trị trên cơ sở công bằng và tôn trọng quyền làm chủ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết – Hạt nhân lý luận trong kiến trúc nhà nước kiểu mới

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình hình thành, vận hành và đổi mới thể chế. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến đoàn kết như một giá trị truyền thống, mà Người đã nâng đoàn kết lên thành một triết lý hành động, một chiến lược tổ chức xã hội và là phương pháp vận hành nhà nước. Phát biểu nổi tiếng của Người: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công” không đơn thuần là một khẩu hiệu, mà là một hàm ý chiến lược về mặt thiết kế quyền lực và tổ chức quản trị đất nước [8].

Trong toàn bộ di sản tư tưởng – lý luận và phương pháp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đặt Nhân dân vào vị trí trung tâm của khối đại đoàn kết. Người khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân là gốc của nước. Có lực lượng của dân thì việc to tát mấy cũng làm được” [9]. Tư tưởng này ngày nay được nhìn nhận như một luận điểm có tầm vóc lý luận hiện đại, tương thích với các khái niệm về chủ quyền Nhân dân, dân chủ trực tiếp, và nhà nước kiến tạo phát triển – những lý thuyết then chốt trong khoa học chính trị – quản trị hiện đại của thế giới.

Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới thể chế hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết có giá trị tham chiếu cực kỳ sâu sắc: khi các mối quan hệ trong xã hội ngày càng trở nên phức tạp, phân mảnh lợi ích ngày càng rõ rệt, bất đối xứng thông tin giữa Nhà nước và người dân ngày càng mở rộng, thì việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc không còn là lựa chọn mà là điều kiện sinh tồn của chế độ. Thống nhất dân tộc – về nhận thức, lợi ích và mục tiêu – phải được thiết kế lại trên nền tảng thể chế, chứ không thể chỉ trông cậy vào các chiến dịch tuyên truyền đơn tuyến.

Từ đó có thể khẳng định: tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cần được cụ thể hóa trong công cuộc đổi mới thể chế hiện nay, thông qua các hành động như: hiến định vai trò làm chủ của Nhân dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ sự đa dạng – bao dung – công bằng; xây dựng chính quyền điện tử, chính phủ mở; và mở rộng không gian phản biện xã hội như một cấu phần của thiết chế đoàn kết.

Thực trạng: Những rạn nứt đoàn kết trong hành chính công và thể chế hiện hành

Trong tiến trình hiện đại hóa nền hành chính quốc gia và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, một trong những thách thức chiến lược và cốt lõi hiện nay chính là những điểm nghẽn và rạn nứt trong hệ thống thể chế – hành chính, đang làm mờ nhạt nguyên tắc đoàn kết toàn dân, làm suy giảm sức mạnh kết nối giữa ý chí Đảng, pháp luật Nhà nước với lòng dân.

Tầng nấc trung gian – lực cản đoàn kết thể chế

Thực trạng bộ máy công vụ hiện nay đang bộc lộ tình trạng quá nhiều tầng nấc trung gian với vai trò, chức năng chồng lấn, chưa rõ ràng, khiến hệ thống hành chính trở nên cồng kềnh, phân tán, khó kiểm soát, và đặc biệt tạo ra “độ vênh” đáng kể giữa chủ trương, chính sách với khâu thực thi trên thực tiễn. Thay vì trở thành “nhịp cầu” kết nối ý chí của Nhà nước với lợi ích Nhân dân, nhiều cấp trung gian lại vận hành như những “vành đai cách ly”, gây phân mảnh thông tin, trì trệ trong phối hợp, chồng chéo trách nhiệm, và rạn nứt trong lòng tin công chúng đối với thể chế.

Tình trạng “trên nóng – dưới lạnh”, hay “trung gian làm khó”, không đơn thuần là hiện tượng hành chính, mà đã trở thành biểu hiện của sự xói mòn nguyên tắc dân chủ, khi mà tầng lớp Nhân dân – chủ thể của quyền lực nhà nước – không thể tiếp cận hiệu quả với các nguồn lực công, các dịch vụ hành chính hay cơ hội phát triển một cách công bằng. Theo số liệu từ Bộ Nội vụ, tính đến năm 2024, cả nước vẫn duy trì hơn 139.000 đơn vị sự nghiệp công lập, cùng với hàng vạn tổ chức trung gian từ cấp huyện, xã, sở ngành đến hội đoàn, tạo nên một hệ thống hành chính phân tầng phức tạp, với hàng chục vạn cán bộ, viên chức hưởng lương từ ngân sách [10]. Tuy nhiên, hiệu quả điều phối chính sách, phối hợp liên ngành, liên cấp vẫn bị đánh giá là yếu, thiếu đồng bộ, kém nhạy bén và xa rời thực tiễn đời sống của người dân.

Đây chính là biểu hiện rõ nét của lỗ hổng thể chế – nơi mà đoàn kết không được định vị như một nguyên lý vận hành chiến lược, mà bị phân rã bởi cơ chế “phân mảnh quyền lực”, “cát cứ thông tin” và “tự trị bộ phận”. Khi mỗi đơn vị hành chính vận hành như một ốc đảo, và mỗi cấp trung gian tồn tại như một “trạm thu phát quyền lực” mà không chịu trách nhiệm đến cùng với kết quả đầu ra, thì không thể xây dựng được một nền hành chính thống nhất, trong sạch, vững mạnh và đoàn kết đúng nghĩa.

Tổng Bí thư Tô Lâm trong bài viết “Phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc – Động lực quan trọng để xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc” đã chỉ rõ: “Một bộ máy nhiều tầng nấc, quan liêu, chồng chéo, không gắn với thực tiễn, sẽ làm suy yếu lòng dân, chia cắt khối đoàn kết và tạo nên sự bất bình đẳng trong tiếp cận quyền lợi chính đáng của người dân” [11]. Lời nhắc ấy không chỉ là cảnh báo về thể chế, mà còn là định hướng chiến lược cho công cuộc cách mạng thể chế: phải cắt bỏ tầng nấc trung gian không hiệu quả, thiết kế lại hệ thống quản trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực – hiệu quả – liêm chính – hành động – phục vụ Nhân dân.

Hạn chế trong quy hoạch chính trị – hành chính: Dân là trung tâm nhưng chưa là chủ thể

Trong suốt quá trình đổi mới, tư tưởng “lấy dân làm trung tâm” đã được khẳng định như một trục xuyên suốt trong tất cả các văn kiện, đặc biệt là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, cũng như trong nhiều nghị quyết của Trung ương như Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, hay Nghị quyết số 18-NQ/TW về đổi mới tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, một thực tế đáng quan ngại là giữa khẩu hiệu và hiện thực vẫn còn một khoảng cách không nhỏ.

Ở nhiều lĩnh vực quản trị công, người dân vẫn chưa thực sự được đặt ở vị trí “chủ thể chính trị”, chưa được tạo điều kiện để thực hiện vai trò “tham gia – phản biện – giám sát – kiểm soát quyền lực”. Cơ chế để người dân góp ý cho văn bản luật, góp ý cho chính sách, hay theo dõi thực thi công vụ còn rất hình thức, thiếu thực chất. Việc lấy ý kiến cộng đồng thường được tiến hành theo hướng một chiều, mang tính minh họa hơn là thấu hiểu, đối thoại. Điều đó khiến nhiều người dân cảm thấy mình chỉ là “đối tượng thụ hưởng” chứ không phải là “đồng kiến tạo” của chính sách.

Chính tình trạng “thiết kế trên cao, thi hành dưới thấp, bỏ qua Nhân dân ở giữa” đã làm suy yếu sức mạnh đoàn kết từ gốc. Một nền hành chính mà người dân không được đồng hành, không được tham vấn từ đầu, không thể tham gia giám sát trong suốt quá trình chính sách thì khó có thể gọi là thể chế dân chủ thực chất. Điều này không chỉ trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về “người dân là chủ và người dân làm chủ” mà còn đi ngược với định hướng xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, hành động vì hạnh phúc Nhân dân [12].

Mặt khác, cơ cấu tổ chức bộ máy hiện hành vẫn chưa tạo ra đủ khoảng không cho xã hội dân sự, cho các tổ chức cộng đồng dân cư, các nhóm lợi ích hợp pháp và những tiếng nói đa dạng từ Nhân dân. Điều này khiến quá trình thiết kế thể chế trở nên khép kín, dễ bị chi phối bởi lợi ích nhóm và thiếu cơ chế minh bạch, đối trọng. Khi người dân không được nói tiếng nói của mình một cách công khai, chính thức, hợp pháp trong quá trình hoạch định chính sách, thì rất dễ dẫn tới tình trạng mất phương hướng, mất niềm tin và rạn nứt nền tảng đoàn kết.

Chỉ khi người dân được đặt vào vị trí trung tâm với tư cách là chủ thể chính trị tích cực, được tạo điều kiện để phản ánh, đối thoại, giám sát và phản biện chính sách một cách dân chủ, công khai, thì mới có thể tạo ra sự đoàn kết thực chất trong hành chính công. Đoàn kết không thể là mệnh lệnh, càng không thể là khẩu hiệu, mà phải là một thiết kế thể chế đồng bộ – nơi lòng dân gặp ý Đảng, nơi quyền lực được kiểm soát bởi Nhân dân và vì Nhân dân.

Như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Phải đặt lợi ích Nhân dân là tối thượng, tạo mọi điều kiện để Nhân dân làm chủ thực chất, từ đó huy động được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc – cội nguồn tạo dựng quốc gia thịnh trị” [13]. Tư tưởng này không chỉ là nguyên lý đạo đức chính trị, mà còn là nguyên lý vận hành thể chế – nơi lòng dân trở thành nền móng vững chắc nhất của quyền lực nhà nước, và đoàn kết toàn dân trở thành đòn bẩy chiến lược của mọi cải cách thể chế quốc gia.

Quan điểm đổi mới: Đoàn kết phải được tổ chức bằng thể chế, luật pháp và chính quyền kiến tạo

Trong thời đại hiện nay, khi quốc gia đang bước vào một giai đoạn “đại cách mạng thể chế” với yêu cầu đổi mới toàn diện và đồng bộ, thì đoàn kết toàn dân không còn là khẩu hiệu chính trị đơn thuần mà đã trở thành một nền tảng chiến lược mang tính cấu trúc, phải được tổ chức, vận hành và bảo vệ bằng thể chế pháp quyền, cơ chế dân chủ và bộ máy chính quyền kiến tạo phát triển.

Tái cấu trúc quyền lực và chính quyền theo nguyên lý “gần dân, vì dân, do dân”

Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 7/2024 đã đặt ra một định hướng rất căn cơ: “Muốn đoàn kết thực chất thì Đảng, Nhà nước phải dám lắng nghe, dám sửa sai, dám đổi mới để phục vụ Nhân dân tốt hơn” [14].

Đây không chỉ là một lời hiệu triệu có tính đạo đức chính trị, mà còn là một tuyên ngôn cải cách sâu sắc về mặt thể chế. Tư tưởng này đòi hỏi một cuộc tái cấu trúc toàn diện chính quyền các cấp, đặc biệt là chuyển đổi mô hình quyền lực từ “hành chính mệnh lệnh” sang “chính quyền phục vụ – kiến tạo – gần dân”. Không thể có đoàn kết toàn dân nếu bộ máy Nhà nước vẫn hoạt động theo cơ chế cứng nhắc, quan liêu, xa dân và ít tương tác với đời sống thực tế của người dân. Sự gần gũi và đồng hành của Nhà nước với dân chính là yếu tố then chốt để củng cố lòng tin và sự tham gia của toàn xã hội vào công cuộc xây dựng quốc gia bền vững.

Tái cấu trúc bộ máy cần rút ngắn chuỗi quyền lực, giảm tầng nấc trung gian không cần thiết, loại bỏ các hình thức “ủy quyền chồng chéo”, đồng thời chuyển mạnh sang mô hình chính quyền đô thị, chính quyền số và dữ liệu mở, nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ Nhân dân và tạo nên một không gian thể chế linh hoạt, minh bạch, hướng về người dân. Nhiều quốc gia đã áp dụng thành công mô hình “quyền lực gần dân” như Nhật Bản, Singapore hay Pháp, cho thấy hiệu quả tích cực của các thiết kế thể chế nhằm tối thiểu hóa chi phí quyền lực và tối đa hóa hiệu quả phục vụ công [15].

Trong bối cảnh Việt Nam, điều này đồng nghĩa với việc cần hoàn thiện các đạo luật về tổ chức bộ máy Nhà nước, luật hóa quyền giám sát của Nhân dân, mở rộng thực quyền cho chính quyền địa phương và cải cách chế độ công chức theo hướng trách nhiệm, năng động và vì dân. Đổi mới thể chế không thể tách rời cải cách con người – bộ máy – công vụ. Chính quyền kiến tạo phải là chính quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân một cách thực chất, không hình thức.

Đoàn kết toàn dân thông qua chính sách công công bằng, minh bạch và đồng tham gia

Đoàn kết toàn dân không thể chỉ được tạo lập từ lý tưởng hay cảm xúc chính trị. Đoàn kết bền vững chỉ được thiết lập khi người dân có niềm tin vào tính công bằng, minh bạch và hợp lý của thể chế chính sách. Khi chính sách công được thiết kế dựa trên nền tảng công lý xã hội, không thiên vị giai tầng, không đặc quyền đặc lợi, thì mỗi công dân sẽ cảm thấy mình là một phần hữu cơ của cộng đồng dân tộc – và chính điều đó hình thành nên sự đoàn kết thực chất.

Chính sách thuế, y tế, giáo dục, môi trường, an sinh – nếu được xây dựng trên nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau”, phải trở thành công cụ tạo dựng đoàn kết thay vì gây chia rẽ. Ngược lại, nếu các thiết kế chính sách tiếp tục duy trì khoảng cách giữa nhóm đặc quyền và cộng đồng đại chúng, giữa khu vực thành thị – nông thôn, giữa miền xuôi – miền ngược, thì mâu thuẫn xã hội sẽ dần tích tụ, làm rạn vỡ khối đại đoàn kết dân tộc [16].

Minh bạch chính sách không chỉ là minh bạch về ngân sách hay số liệu, mà phải là minh bạch trong lập trình mục tiêu và kết quả công, đồng thời bảo đảm quyền tham gia chính trị – xã hội của người dân. Những tiến bộ gần đây trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư, triển khai chính phủ số, và mở rộng đối thoại với người dân là cơ hội lớn để thể chế hóa đoàn kết. Cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để Nhân dân được tham gia đầy đủ vào quá trình hoạch định, giám sát và đánh giá chính sách – điều mà các quốc gia dân chủ hiện đại đã xem là chuẩn mực quản trị phổ quát [17].

Đặc biệt, với các nhóm yếu thế – người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật – chính sách công phải không chỉ dừng lại ở sự hỗ trợ mà cần trao quyền tham gia, trao cơ hội phát triển. Đoàn kết toàn dân phải là đoàn kết của những chủ thể bình đẳng về pháp lý, không phải là sự ban ơn hay phân phối lại theo kiểu hành chính hóa. Vì vậy, cải cách chính sách công là cải cách cốt lõi để chuyển từ “nhà nước điều hành” sang “nhà nước hợp tác với Nhân dân”.

Đoàn kết cũng không chỉ là một kết quả chính trị, mà phải được lập trình như một chỉ số thể chế: Mỗi chính sách trước khi được ban hành cần phải trả lời câu hỏi: “Liệu nó có làm sâu sắc thêm sự đồng thuận quốc gia hay vô tình tạo ra mâu thuẫn xã hội?” Đây chính là tư duy “quản trị lấy đoàn kết làm trọng tâm” mà Tổng Bí thư Tô Lâm đã khơi gợi bằng khẩu hiệu hành động mới: “Thấu hiểu dân, chăm lo dân, đoàn kết toàn dân, phát triển vì dân” [18].

Một số giải pháp mang tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước

Từ những phân tích lý luận và thực tiễn đã trình bày, có thể khẳng định rằng: để khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực sự trở thành nền tảng vững chắc trong công cuộc xây dựng, vận hành, kiểm soát quyền lực nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cần có những giải pháp mang tính chiến lược, lâu dài và có khả năng định hình mô hình nhà nước phục vụ hiện đại, minh bạch, hiệu lực – hiệu quả. Ba trụ cột cải cách hiến pháp, cải cách hành chính và xây dựng văn hóa chính trị mới cần được triển khai đồng bộ và sâu sắc.

Hiến định vai trò của Nhân dân trong kiểm soát quyền lực và giám sát thể chế

Một Nhà nước pháp quyền thực sự vì dân, do dân và của dân không thể thiếu sự công nhận đầy đủ quyền giám sát của Nhân dân như một thiết chế hiến định. Do đó, cần xem xét sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 theo hướng nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư như một chủ thể chính trị có năng lực giám sát quyền lực nhà nước. Điều này không chỉ đơn thuần là mở rộng dân chủ trực tiếp, mà còn là bước chuyển căn bản trong tư duy pháp lý và tổ chức quyền lực nhà nước hiện đại.

Cần hiến định rõ hơn vai trò của Nhân dân và các thiết chế dân cử, dân chủ cơ sở, mặt trận và tổ chức xã hội – nghề nghiệp trong việc kiểm tra, giám sát, phản biện đối với hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải có “địa chỉ pháp lý” cụ thể, được định vị rõ ràng trong Hiến pháp và được thể chế hóa trong các đạo luật cơ bản như: Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), Luật Thanh tra (sửa đổi)…

Việc định chế hóa vai trò của Nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước không chỉ là vấn đề kỹ thuật lập hiến, mà còn là biểu hiện sinh động của một nền dân chủ pháp quyền tiên tiến. Đó là cách thể chế hóa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào chính cấu trúc quyền lực và quy trình vận hành của Nhà nước.

Cải cách hành chính theo hướng số hóa, dữ liệu hóa – hiện thực hóa đoàn kết trong vận hành quyền lực

Cải cách hành chính không chỉ là đổi mới quy trình, mà còn là tái thiết toàn diện cấu trúc phục vụ và cách thức tương tác giữa Nhà nước với Nhân dân. Trọng tâm của cải cách hành chính hiện nay cần đặt vào quá trình chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, dữ liệu hóa quản trị để phục vụ Nhân dân hiệu quả hơn – đúng như tinh thần Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, xã hội số, công dân số mà Đảng, Nhà nước đã khẳng định.

Trong đó, việc tích hợp Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các hệ thống thông tin của các ngành như: tài chính, thuế, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục, hộ tịch, địa chính… phải được triển khai theo nguyên tắc liên thông – đồng bộ – phục vụ, nhằm tạo ra một hạ tầng số phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân một cách nhanh chóng, minh bạch và tiện ích.

Đây chính là cách để nguyên lý “dân là gốc” được vận hành trong mô hình chính quyền kiến tạo phát triển, nơi mọi dữ liệu, dịch vụ, quyết định và chính sách đều bắt nguồn từ nhu cầu thực tiễn của Nhân dân. Đó là sự chuyển hóa đoàn kết từ một giá trị tinh thần thành sức mạnh vật chất cụ thể trong quản trị quốc gia.

Đặc biệt, trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện, cần xây dựng một hệ thống giám sát – phản hồi tích hợp giữa người dân với các cơ quan nhà nước, đảm bảo mọi ý kiến góp ý, phản biện hay khiếu nại đều được xử lý theo cơ chế điện tử công khai, minh bạch, có đối thoại và có trách nhiệm giải trình rõ ràng. Đó cũng là cách củng cố lòng tin xã hội – nền tảng tinh thần bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc.

Xây dựng văn hóa chính trị mới – nền văn hóa đoàn kết thể chế

Không thể xây dựng và vận hành một nền dân chủ pháp quyền hiệu quả nếu thiếu một văn hóa chính trị dựa trên tinh thần đoàn kết, phục vụ và tương tác. Trong điều kiện hiện nay, cần đặc biệt nhấn mạnh đến việc xây dựng văn hóa đoàn kết thể chế, tức là khơi dậy và lan tỏa tinh thần vì dân, phụng sự Nhân dân trong toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức – những người trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước.

Đoàn kết trong bộ máy công quyền không chỉ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan hành chính, lập pháp, tư pháp mà còn là thái độ hành xử, cách tiếp cận của từng cán bộ khi tiếp xúc với Nhân dân. Mỗi cán bộ, công chức cần trở thành một “tác nhân đoàn kết”, thể hiện qua ba tiêu chí: (1) Lắng nghe Nhân dân; (2) Tôn trọng pháp luật và chuẩn mực hành chính; (3) Sáng tạo, linh hoạt và trách nhiệm trong thực thi công vụ.

Cần có chương trình đào tạo lại, bồi dưỡng lại toàn diện đội ngũ cán bộ theo hướng Nhà nước phục vụ. Trong đó, nội dung giáo dục chính trị – tư tưởng phải gắn với rèn luyện văn hóa hành chính, đạo đức công vụ và kỹ năng công dân số. Đây là nền tảng để kiến tạo một nền văn hóa chính trị hiện đại – nhân văn – gắn kết, bảo đảm sự hòa hợp giữa sức mạnh của Đảng, Nhà nước với sức mạnh của Nhân dân – đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm từng chỉ rõ: “Đoàn kết là sức mạnh của dân tộc, là cội nguồn tạo ra thành công, là vũ khí để vượt qua thử thách trong mỗi bước đi lên” [19].

Đại đoàn kết – kiến trúc thể chế vì tương lai phồn vinh của quốc gia

Đoàn kết toàn dân không thể là khái niệm đạo đức trừu tượng mà phải được “tổ chức lại” như một trụ cột thể chế – nơi người dân không chỉ được nghe mà được quyết định; không chỉ được thụ hưởng mà được cùng kiến tạo chính sách. Trong bối cảnh đại cách mạng thể chế, việc thể chế hóa đoàn kết là nền móng để xây dựng một quốc gia do dân, vì dân và vì sự phát triển phồn vinh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần của các nghị quyết Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết 27-NQ/TW (2022) về xây dựng đội ngũ cán bộ và Nghị quyết 25-NQ/TW về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đều nhấn mạnh: Mọi cuộc cải cách đều cần bắt đầu từ Nhân dân – với Nhân dân là trung tâm và đoàn kết là phương tiện thể chế hóa toàn bộ quá trình phát triển quốc gia.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Không có đoàn kết thì không có gì, có đoàn kết thì có tất cả. Nhưng đoàn kết không tự nhiên có được. Đó là kết quả của cả một quá trình vận động, tổ chức và giữ gìn bằng luật pháp, bằng sự chính danh của Nhà nước và uy tín của Đảng.” Do đó, muốn kiến tạo một Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện đại, dân chủ, hiệu lực, thì trước hết phải làm cho đoàn kết trở thành một hệ thống vận hành quốc gia – nơi mọi công dân được trao quyền và gắn kết trong một cộng đồng chính trị – pháp lý rộng mở, tin cậy và phát triển.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn

[1] Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội tr. 455.

[2] Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Điều 2.

[3] [7] Tô Lâm (2024), “Sức mạnh của đoàn kết”, Tạp chí Cộng sản, số tháng 7/2024.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội tr. 167.

[5] Fukuyama, Francis (2013), What is Governance?, Governance: An International Journal of Policy, Administration, and Institutions, Vol. 26, No. 3.

[6] Osborne, S.P. (2006), The New Public Governance?, Public Management Review, Vol. 8, No. 3.

[8] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 506.

[9] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 234.

[10] Bộ Nội vụ, Báo cáo tổng kết công tác cải cách hành chính năm 2024, Hà Nội, 2024.

[11] Tô Lâm, “Phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc – Động lực quan trọng để xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc”, Báo Nhân dân, ngày 20/6/2024.

[12] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr. 115-116.

[13] Tô Lâm, phát biểu tại phiên khai mạc Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, tháng 5/2024.

[14] Tô Lâm (2024), Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, ngày 17/7/2024, đăng trên Báo Nhân dân.

[15] UNDP (2023), Strengthening Local Government Capacity and Accountability in Public Service Delivery, United Nations Development Programme.

[16] World Bank (2024), Vietnam Systematic Country Diagnostic – Addressing Structural Inequalities, World Bank Publications.

[17] OECD (2021), Open Government: The Global Context and the Way Forward, OECD Publishing.

[18] Tô Lâm (2024), Diễn văn tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, tháng 6/2024.

[19] Tổng Bí thư Tô Lâm, Phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 9 (khóa XIII), tháng 5/2024.

                                                                                                                                                                       LÊ HÙNG

                                                                                                                                                 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh