ĐBQH tỉnh Quảng Ninh tham gia ý kiến vào các dự thảo nghị quyết quan trọng của Quốc hội

Ngày 19/11, tiếp tục phiên thảo luận tổ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh đã tham gia góp ý kiến đối với các dự thảo: Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai; Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế; chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.

g
Đại biểu Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, Tổ trưởng tổ thảo luận, phát biểu đề dẫn.

Phát biểu đề dẫn, đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh, Tổ trưởng tổ thảo luận nhấn mạnh tính chất quan trọng và yêu cầu cấp thiết của từng nội dung được trình bày trong phiên họp.

Đối với chủ trương đầu tư Dự án Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, đây là dự án quy mô quốc gia, có vị trí chiến lược tại phía Bắc, được thiết kế với công suất từ 30 đến 50 triệu hành khách mỗi năm, diện tích gần 2.000ha, trong đó hơn 900ha là đất lúa. Mục tiêu của dự án là xây dựng sân bay tiêu chuẩn 5 sao, đáp ứng yêu cầu phục vụ APEC 2027 và nhiệm vụ quốc phòng – an ninh. Để bảo đảm tiến độ, đại biểu đề nghị làm rõ các cơ chế đặc thù, nhất là trong bối cảnh Bắc Ninh có nhiều di tích, di sản cần có phương án di dời phù hợp, đúng thẩm quyền và đúng pháp luật.

g
Quang cảnh phiên thảo luận tổ.

Liên quan đến dự thảo Nghị quyết của Quốc hội nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, các đại biểu cho rằng dù Luật Đất đai sửa đổi vừa được thông qua, việc triển khai thực tế đã phát sinh nhiều bất cập. Do chưa đủ điều kiện để tiếp tục sửa luật, Chính phủ trình Quốc hội ban hành nghị quyết để xử lý trước những vướng mắc cấp bách. Những nội dung đáng chú ý gồm cơ chế thu hồi đất khi có trên 75% số hộ và diện tích đồng thuận; việc còn lại thuộc diện cưỡng chế theo đúng quy định; yêu cầu hoàn thiện bảng giá đất mới áp dụng từ năm 2026; đồng thời xử lý các vấn đề liên quan đến thanh toán bằng đất trong các dự án BT. Các đại biểu đề nghị đánh giá tác động đầy đủ cơ chế “75% đồng thuận – 25% bắt buộc” nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến cơ chế, chính sách đặc thù để nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, các đại biểu tập trung thảo luận về việc tăng quyền chủ động cho bộ, ngành trong tham gia đàm phán quốc tế, xử lý các vấn đề pháp lý theo cam kết quốc tế; bổ sung nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; nâng chế độ, chính sách cho cán bộ ngoại giao; và cho phép thuê chuyên gia chất lượng cao phục vụ đàm phán. Đây là những chính sách góp phần triển khai mạnh mẽ Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

g
Đại biểu Trần Thị Kim Nhung, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh, phát biểu thảo luận.

Phát biểu thảo luận, đại biểu Trần Thị Kim Nhung, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Quảng Ninh tập trung làm rõ nhiều băn khoăn liên quan đến các dự thảo nghị quyết trình Quốc hội. Đối với nghị quyết tháo gỡ vướng mắc trong thi hành Luật Đất đai, đại biểu cho rằng nhiều nội dung có tính chất sửa luật, đặc biệt liên quan đến thu hồi đất, lĩnh vực mà Hiến pháp yêu cầu phải quy định bằng luật. Cơ chế “75% đồng thuận – 25% cưỡng chế” được cho là có thể tạo ra bất cập trong thực tế và gây nguy cơ khiếu kiện nếu phần đất còn lại có giá trị cao. Đại biểu đề nghị cần đánh giá tác động đầy đủ, tránh rủi ro và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Về dự án Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, đại biểu đồng tình với chủ trương triển khai nhưng lo ngại việc sử dụng hơn 922 ha đất lúa hai vụ và việc di dời 25 di tích. Đây là các yếu tố cần được cân nhắc kỹ để không ảnh hưởng đến an ninh lương thực và bảo tồn văn hóa. Đại biểu đề nghị Chính phủ chịu trách nhiệm toàn diện về số liệu và tính khả thi của dự án.

Với nghị quyết về cơ chế đặc thù trong hội nhập quốc tế, đại biểu bày tỏ lo ngại khi dự thảo trao cho Chính phủ quyền ban hành nghị quyết có nội dung khác luật đến năm 2030. Đại biểu cho rằng nên sửa luật trực tiếp thay vì mở rộng cơ chế ủy quyền lập pháp, nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Đại biểu cũng kiến nghị cần luật hóa chức danh “Đặc phái viên của lãnh đạo Đảng, Nhà nước” một thiết chế đã được vận dụng hiệu quả trong thực tiễn nhưng chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng.

g
Đại biểu Đặng Xuân Phương, Phó Bí thư Đảng ủy Quốc hội, ĐBQH tỉnh phát biểu tại phiên thảo luận tổ.

Đối với Nghị quyết về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn trong thi hành Luật Đất đai, đại biểu Đặng Xuân Phương, Phó Bí thư Đảng ủy Quốc hội, ĐBQH tỉnh đồng tình với chủ trương ban hành nhưng đề nghị rà soát kỹ các quy định để tránh vướng mắc khi áp dụng. Đại biểu kiến nghị bỏ khoản 5, điều 4 vì quy định đấu giá đất chỉ dựa trên quy hoạch phân khu hoặc quy hoạch chung sẽ không xác định được giá đất cụ thể. Đại biểu cũng đề nghị giao Chính phủ quy định chi tiết việc điều chỉnh thời hạn sử dụng đất khi chuyển đổi nhà đầu tư để bảo đảm tính khả thi.

Tại điều 7, đại biểu đề nghị sửa đổi, bổ sung nhằm đảm bảo thống nhất trong giai đoạn chuyển tiếp về xác định giá đất. Đối với điều 11, đại biểu phân tích nhiều vướng mắc thực tiễn liên quan đến tách thửa, hợp thửa, chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất và kiến nghị sửa đổi để đảm bảo đồng bộ với quy hoạch, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Đại biểu cũng đề xuất hoàn thiện quy định cho phép UBND cấp xã được khai thác, cho thuê ngắn hạn quỹ đất đang quản lý để tránh lãng phí.

Đối với dự thảo Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù trong hội nhập quốc tế, đại biểu đánh giá cao mục tiêu tăng cường quan hệ đối ngoại, nâng cao sức mạnh mềm và hỗ trợ hợp tác quốc tế. Đại biểu ủng hộ việc trao cho Chính phủ thẩm quyền xử lý kịp thời các vướng mắc pháp lý trong hợp tác quốc tế; cho phép địa phương lập văn phòng đại diện ở nước ngoài; và linh hoạt đầu tư hỗ trợ các công trình, dự án phục vụ quan hệ hữu nghị. Đại biểu nhấn mạnh tính thiết thực của cơ chế này qua các ví dụ từ thực tiễn hợp tác Việt Nam – Lào.

Đại biểu cũng đồng tình với các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập, như lập Quỹ phát triển hội nhập quốc tế và Quỹ xúc tiến xuất khẩu, nhằm tăng năng lực cạnh tranh toàn cầu. Đồng thời, đề nghị chú trọng đào tạo, tận dụng nguồn nhân lực có kinh nghiệm trong ngoại giao và hội nhập, kể cả lực lượng đã nghỉ hưu.

g
Đại biểu Đỗ Thị Lan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, ĐBQH tỉnh phát biểu thảo luận.

Đại biểu Đỗ Thị Lan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, ĐBQH tỉnh cho rằng việc tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong chính sách đất đai là cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tuy nhiên việc lựa chọn cơ chế, phương pháp tháo gỡ phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Đại biểu nhận định nhiều nội dung trong dự thảo nghị quyết liên quan trực tiếp đến quyền của tổ chức, cá nhân và quyền công dân đối với đất đai, trong khi theo Hiến pháp, các vấn đề này phải được quy định bằng luật chứ không phải bằng nghị quyết. Vì vậy, việc mở rộng đối tượng thu hồi đất thông qua nghị quyết là chưa phù hợp với quy định hiến định.

Về cơ chế thỏa thuận khi thu hồi đất, đại biểu cho rằng các mức 50% hay 75% diện tích và số người sử dụng đất được đề xuất trong dự thảo còn quá thấp. Đại biểu kiến nghị nâng lên tối thiểu 85% ở cả hai tiêu chí để bảo đảm tính đồng thuận. Đồng thời, khái niệm “người sử dụng đất” cũng cần được giải thích rõ, bao gồm cả những trường hợp không có giấy chứng nhận nhưng đang sử dụng đất thực tế, nhằm tránh vướng mắc khi áp dụng.

Đối với quy định bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất, đại biểu cho rằng việc chỉ bồi thường phần bị tháo dỡ trong khi phần còn lại của nhà hoặc công trình vẫn đạt tiêu chuẩn kỹ thuật là không phù hợp thực tiễn. Nhiều trường hợp khi nhà bị phá dỡ một phần thì toàn bộ công trình không còn giá trị sử dụng hoặc mất mỹ quan, buộc người dân phải xây mới, nhưng mức bồi thường theo quy định hiện hành lại không đáp ứng được. Đại biểu đề nghị cân nhắc điều chỉnh để bảo đảm người dân được bồi thường hợp lý.

Về quy định tách thửa, đại biểu đồng ý với yêu cầu tạo lối đi kết nối với đường giao thông công cộng đối với đất ở và đất phi nông nghiệp. Tuy nhiên, đối với đất nông nghiệp ở vùng sâu, vùng rộng lớn vốn không có đường giao thông mà chỉ có lối mòn, việc buộc tạo lối đi giao thông khi tách thửa là không khả thi. Do vậy, đại biểu đề nghị có quy định đặc thù cho những trường hợp đất nằm sâu bên trong, không thể kết nối với đường giao thông công cộng. Đại biểu kết luận bằng việc nhấn mạnh nhu cầu hoàn thiện các quy định để vừa tháo gỡ vướng mắc, vừa bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người dân và sự phù hợp với Hiến pháp.

g
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, phát biểu thảo luận.

Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh cho rằng một số quy định trong dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai nếu không được hướng dẫn thật cụ thể thì rất khó triển khai trên thực tế. Đại biểu đề nghị Chính phủ cùng các bộ, ngành phải ban hành hướng dẫn chi tiết, bởi nếu chỉ quy định chung chung như hiện nay thì quá trình tổ chức thực hiện sẽ gặp nhiều vướng mắc.

Về nội dung tái định cư, đại biểu đặc biệt quan tâm và nêu rõ bất cập hiện nay: giá đất tại các khu tái định cư đã hoàn thiện hạ tầng thường cao hơn rất nhiều so với mức bồi thường mà người dân nhận được khi bị thu hồi đất. Trong thực tế, đất của người dân thường được định giá thấp do chưa có hạ tầng, nhưng khi đưa vào khu tái định cư có hạ tầng hoàn chỉnh thì giá lại tăng mạnh. Điều này khiến tiền đền bù không đủ để người dân mua suất tái định cư, dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện kéo dài. Vì vậy, nhiều địa phương khi thực hiện dự án buộc phải bố trí tái định cư tại các khu đất chưa xây dựng hạ tầng nhằm giữ giá đất ở mức phù hợp, để người dân dùng tiền bồi thường có thể thanh toán được. Phần hạ tầng còn lại sẽ được đầu tư bằng nguồn vốn công sau đó. Đại biểu cho rằng cách làm này thực tế, nhân văn và tạo điều kiện để người dân đồng thuận.

Một vấn đề nữa liên quan tới tái định cư là trong quá trình xây dựng khu tái định cư, Nhà nước cũng cần thu hồi đất của một số hộ dân khác. Vì vậy, việc thu hồi đất để xây dựng khu tái định cư phải được quy định rõ trong luật, bảo đảm việc triển khai diễn ra nhanh chóng, đặc biệt với các dự án cấp bách.

Đại biểu cũng đề xuất việc quy định tái định cư tại chỗ trong các đô thị lớn, nhất là khi mở rộng đường phố. Thay vì chỉ thu hồi phần diện tích đúng bằng phạm vi mở đường, Nhà nước có thể thu hồi sâu hơn để vừa mở đường, vừa xây dựng khu tái định cư tại chỗ. Ví dụ, nếu mở rộng đường 10 mét, có thể thu hồi 30 mét, trong đó 10 mét làm đường, còn phần còn lại dùng để xây dựng khu tái định cư cho chính các hộ bị ảnh hưởng. Người sống ở mặt đường vẫn được bố trí ở mặt đường; người trong ngõ có thể bố trí ở tầng trên của các công trình mới. Làm như vậy không chỉ giúp người dân ổn định tại chỗ mà còn góp phần chỉnh trang đô thị, bảo đảm mỹ quan, tránh tình trạng nhà cửa lộn xộn như hiện nay khi chỉ thu hồi đến chỉ giới đường.

Đại biểu nhấn mạnh rằng các đề xuất này nhằm bảo đảm tính khả thi, đồng thời nâng cao sự đồng thuận của người dân khi triển khai các dự án thu hồi đất, bồi thường và tái định cư, qua đó góp phần thực hiện hiệu quả các nghị quyết quan trọng.

                                                                                                             Theo Báo Quảng Ninh