Ngày 23/10, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiến hành phiên thảo luận tại tổ về các dự thảo luật: Luật Phá sản (sửa đổi); Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi); Luật Báo chí (sửa đổi); Luật Dân số; Luật Phòng bệnh.

Tham gia vào nội dung dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi), Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, ĐBQH tỉnh Ngô Hoàng Ngân, bày tỏ sự đồng tình với cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm định. Đại biểu đánh giá dự thảo đã có nhiều đổi mới, phù hợp hơn với thực tiễn hiện nay.
Về tên gọi của luật, đại biểu đề nghị giữ nguyên tên “Luật Phá sản” như hiện hành. Theo đại biểu việc đổi tên là không cần thiết, bởi điều quan trọng là nội dung điều chỉnh bên trong luật, còn nếu thay đổi tên sẽ kéo theo hàng loạt văn bản khác phải sửa đổi, gây phức tạp trong việc thực hiện.

Về thủ tục rút gọn trong phá sản, đại biểu nhất trí với đề xuất của cơ quan soạn thảo, cho rằng đây là quy định cần thiết nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc phá sản. Nếu thủ tục kéo dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và tài sản của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp ngừng hoạt động, máy móc thiết bị không được sử dụng sẽ nhanh chóng xuống cấp, làm giảm giá trị tài sản khi xử lý. Do đó, việc rút gọn thủ tục sẽ giúp bảo toàn tài sản, thu hồi nhanh hơn, đồng thời sớm giải quyết quyền lợi cho người lao động và doanh nghiệp.
Về phạm vi áp dụng, đại biểu nhấn mạnh rằng Luật Phá sản cần được áp dụng bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã. Khi doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán, phải thực hiện quy trình phá sản để tái cơ cấu. Tuy nhiên, trong quá trình này, nếu doanh nghiệp có khả năng phục hồi hoạt động do yếu tố khách quan, thì cần tạo điều kiện cho phục hồi sản xuất, bảo đảm việc làm cho người lao động.

Cùng tham gia bổ sung vào nội dung luật này, Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết về tên gọi của luật, còn nhiều ý kiến khác nhau. Cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đều đã bàn và thống nhất rằng nếu đổi tên luật thì sẽ phát sinh thêm nhiều chi phí hành chính, thủ tục liên quan đến việc sửa đổi các văn bản có liên quan. Vì vậy, đại biểu đề nghị Quốc hội cần tiếp tục thảo luận, lựa chọn tên gọi phù hợp nhất, đồng thời cơ quan soạn thảo phối hợp với cơ quan thẩm tra cần báo cáo lại Ủy ban Thường vụ Quốc hội để có phương án xử lý cuối cùng, có thể thông qua biểu quyết đa số của đại biểu Quốc hội.
Về chi phí cho quá trình thực hiện, cần làm rõ quy trình, nguồn bố trí và thủ tục sắp xếp kinh phí theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước để bảo đảm khả thi. Về thủ tục phục hồi doanh nghiệp, đại biểu đánh giá đây là điểm mới rất nhân văn của dự thảo luật, khi bổ sung một thủ tục độc lập trước thủ tục phá sản. Mục tiêu là tạo cơ hội cho doanh nghiệp và hợp tác xã gặp khó khăn tạm thời có thể được hỗ trợ, “có cú hích” để phục hồi sản xuất. Tuy nhiên, cũng cần quy định rõ tiêu chí xác định doanh nghiệp mất khả năng thanh toán để sàng lọc đúng đối tượng cần hỗ trợ, tránh tràn lan. Các biện pháp hỗ trợ cũng phải khả thi và có cơ chế xử lý nhanh đối với trường hợp không thể phục hồi, tránh tình trạng kéo dài hàng chục năm như trước đây, gây ảnh hưởng đến cả doanh nghiệp và nền kinh tế, làm giảm năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đại biểu cũng nhấn mạnh yêu cầu rõ ràng về trách nhiệm trong quá trình tổ chức thực hiện theo nguyên tắc “6 rõ” (rõ người, rõ trách nhiệm, rõ tiến độ, rõ sản phẩm, rõ thời hạn và rõ kết quả). Việc thi hành án, tổ chức thực hiện phải bảo đảm không chồng chéo, không đùn đẩy, không né tránh và không để khoảng trống pháp lý.
Liên quan đến Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi), đại biểu nêu rằng quỹ bảo hiểm tiền gửi hiện có quy mô trên 100.000 tỷ đồng nhưng thực tế chưa được sử dụng nhiều do chưa có trường hợp cụ thể. Quỹ này chủ yếu được đem đi đầu tư, trong khi mục tiêu chính là bảo vệ người gửi tiền khi có rủi ro xảy ra. Dự thảo luật lần này hướng đến việc cho phép sử dụng quỹ để hỗ trợ xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, nhưng cần quy định rõ cơ chế tài chính, nguồn vốn đầu vào, điều kiện sử dụng và mức phí bảo hiểm tiền gửi cho phù hợp.
Về mức phí, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, đại biểu cho rằng mức hiện hành còn thấp, dự thảo đã đề xuất tăng, nhưng việc chi trả khi có rủi ro chỉ mang tính hỗ trợ, an ủi người gửi tiền chứ không thể bù đắp hoàn toàn thiệt hại. Do đó, cần tiếp tục cân nhắc để bảo đảm hài hòa giữa đầu vào và đầu ra, phù hợp với khả năng của nền kinh tế.

Trong phiên thảo luận chiều, cho ý kiến đối với dự thảo Luật Phòng bệnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Đỗ Thị Lan nêu rõ dự thảo luật đã quy định việc thực hiện phòng bệnh trong suốt vòng đời con người, theo từng giai đoạn, từng nhóm tuổi, và đối tượng thụ hưởng các chính sách về dinh dưỡng cũng rất rộng, bao gồm phụ nữ mang thai, người sinh sống ở vùng khó khăn, trẻ em, học sinh, người lao động và người cao tuổi. Đại biểu cho rằng phạm vi như vậy là rất bao quát, tuy nhiên cần rà soát lại để bảo đảm tính khả thi trong điều kiện ngân sách nhà nước, tránh dàn trải, đồng thời phải có cơ chế quản lý chặt chẽ các chính sách về dinh dưỡng để ngăn ngừa việc bị lợi dụng bởi các nhà cung cấp sản phẩm dinh dưỡng.
Đại biểu Đỗ Thị Lan đề nghị nếu vẫn quyết định đưa quỹ này vào Quỹ Phòng bệnh thì phải quy định rõ một phần chi riêng cho công tác phòng, chống tác hại thuốc lá, thay vì chỉ ghi là “hỗ trợ”, để bảo đảm tính ràng buộc pháp lý và tính minh bạch trong quản lý ngân sách. Đại biểu đề xuất nghiên cứu cơ chế trích thêm từ giá tính thuế của các sản phẩm có nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng như đồ uống có đường, đồ uống có cồn, bia và rượu. Việc này vừa giúp tăng nguồn lực cho Quỹ Phòng bệnh, vừa góp phần định hướng tiêu dùng lành mạnh, phù hợp với mục tiêu lâu dài của Luật Phòng bệnh.

Phát biểu thảo luận, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh bày tỏ sự đồng tình với nhiều ý kiến trước đó và tập trung góp ý ba dự án luật: Luật Phòng bệnh, Luật Dân số và Luật Báo chí (sửa đổi).
Về Luật Phòng bệnh, đại biểu cho rằng dự thảo vẫn thiên về bệnh lây nhiễm, cần mở rộng sang bệnh không lây nhiễm như bệnh nghề nghiệp, sức khỏe sinh sản, y tế học đường, HIV… Phòng bệnh phải được thực hiện từ sớm, từ xa, cần ưu tiên ngân sách cho y tế dự phòng. Đại biểu đề nghị miễn phí tiêm chủng theo chương trình Nhà nước, kể cả ở cơ sở ngoài công lập. Đồng thời, cần bổ sung hành vi bị cấm liên quan đến bệnh không lây nhiễm (như thực phẩm bẩn, quảng cáo sai sự thật), mở rộng truyền thông tư vấn sức khỏe và xây dựng phần mềm quản lý bệnh không lây nhiễm phục vụ chuyển đổi số.
Về Luật Dân số, đại biểu đồng tình với dự thảo đã cập nhật theo Kết luận Bộ Chính trị, nhấn mạnh cần bổ sung giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản và bình đẳng giới trong trường học. Đại biểu đề nghị có chính sách khuyến khích doanh nghiệp và tư nhân hỗ trợ an sinh cho các gia đình trẻ để duy trì mức sinh thay thế; đồng thời khuyến khích phát triển dân số chất lượng cao, thu hút nhân lực giỏi, hình thành nhóm dân số có chất lượng tốt.
Về Luật Báo chí (sửa đổi), đại biểu cho rằng cần làm rõ các khái niệm như cơ quan báo chí, báo chí đa nền tảng, sản phẩm báo chí để tránh nhầm lẫn. Đại biểu đề nghị giữ lại nội dung vị trí, chức năng của luật hiện hành vì đầy đủ hơn, rà soát hành vi bị cấm, bổ sung quy định về chuyển đổi số trong báo chí. Bên cạnh đó, cần làm rõ khái niệm “cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện” và quy định cụ thể về thời gian “không hoạt động” để tránh thu hồi giấy phép máy móc. Với nội dung lưu trữ báo chí trên không gian mạng, cần xem xét lại vì phụ thuộc vào nền tảng chứ không phải cơ quan báo chí.

Cùng tham gia vào nội dung 3 luật, Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội, ĐBQH tỉnh Trần Thị Kim Nhung đề nghị, với Luật Báo chí (sửa đổi) cần làm rõ quy định ở Điều 9 khoản 14 về hành vi cấm; phân biệt rõ “đơn vị sự nghiệp công lập” và “đơn vị sự nghiệp công”; quy định cụ thể hơn quyền tiếp cận thông tin của nhà báo để tránh lạm dụng. Ngoài ra, cần rà soát Điều 17 cho thống nhất với Luật Khoa học – Công nghệ, làm rõ cơ quan vận hành nền tảng số báo chí quốc gia là cơ quan mới hay hiện hữu.
Với Luật Phòng bệnh, đại biểu đề nghị quy định rõ thẩm quyền quyết định cách ly, đảm bảo phù hợp Hiến pháp. Đại biểu nhất trí việc bổ sung nội dung phòng bệnh rối loạn sức khỏe tâm thần, song cần nêu rõ yếu tố nguy cơ, biện pháp phòng ngừa và tăng cường phối hợp giữa ngành y tế và giáo dục. Ngoài ra, quy định về chính sách dinh dưỡng nên tập trung đối tượng ưu tiên, chú trọng tuyên truyền, không mở rộng vượt khả năng ngân sách. Đại biểu cũng đồng tình sáp nhập Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá vào Quỹ Phòng bệnh, nhưng cần quy định rõ cơ chế quản lý và sử dụng.
Đối với Luật Dân số, đại biểu đánh giá việc chuyển hướng sang “dân số và phát triển” là phù hợp. Đồng thời, đại biểu đề nghị giao Chính phủ và địa phương chủ động quy định biện pháp khuyến sinh phù hợp điều kiện từng nơi; đồng thời bảo đảm sự đồng bộ giữa luật này với các luật về thuế, đất đai để chính sách khả thi.





