Dữ liệu điện tử có giá trị thay thế chứng từ giấy trong tố tụng hình sự?

(LSVN) – Hiện nay hầu hết doanh nghiệp logistics, giao hàng nhanh tại Việt Nam đều đã triển khai ứng dụng (app) làm công cụ nghiệp vụ cho shipper. Từ khâu nhận hàng, giao hàng đến thu, nộp tiền thu hộ (COD) mọi thao tác đều được số hóa, lưu trữ trên hệ thống dữ liệu điện tử. Tuy nhiên, một nghịch lý đang diễn ra khi phát sinh vụ việc shipper chiếm đoạt tiền thu hộ, nhiều cơ quan Công an cơ sở vẫn yêu cầu doanh nghiệp phải nộp biên bản bàn giao hàng hóa bằng giấy mới đủ cơ sở xem xét, không chấp nhận dữ liệu điện tử in ra từ hệ thống. Thực tiễn này đặt ra câu hỏi pháp lý quan trọng: Dữ liệu điện tử có giá trị thay thế chứng từ giấy trong tố tụng hình sự hay không? Và vì sao giữa quy định pháp luật và áp dụng thực tế vẫn còn khoảng cách lớn?

Thực trạng và bất cập trong áp dụng

Hoạt động logistics tại Việt Nam những năm gần đây cho thấy sự chuyển đổi mạnh mẽ sang môi trường số. Các doanh nghiệp lớn như J&T Express, GHN, GHTK, Shopee Express,… đã đầu tư hệ thống phần mềm quản lý đơn hàng, nơi mọi thao tác của shipper đều được số hóa từ quét mã vận đơn khi nhận hàng, cập nhật trạng thái phát thành công, ghi nhận số tiền COD đến lưu trữ hành trình với dấu thời gian, mã định danh và tọa độ GPS. Các dữ liệu này được bảo mật, chống chỉnh sửa, lưu trữ tập trung trên máy chủ tạo nên hệ thống chứng từ điện tử minh bạch, đáng tin cậy thậm chí còn chặt chẽ hơn các biên bản giấy truyền thống.

Thế nhưng khi xảy ra tranh chấp hoặc hành vi chiếm đoạt COD, nhiều Công an phường, xã vẫn yêu cầu doanh nghiệp nộp phiếu xuất kho, biên bản bàn giao bằng giấy như điều kiện đủ để tiếp nhận tố giác. Bản in dữ liệu từ hệ thống dù đầy đủ, chi tiết và thể hiện đúng quy trình nghiệp vụ lại bị coi là tài liệu nội bộ, chưa đủ giá trị chứng minh.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Hệ quả của thực tiễn này không hề nhỏ. Việc chậm tiếp nhận hoặc từ chối hồ sơ khiến chứng cứ điện tử mất dần giá trị theo thời gian như nhật ký (log) có thể bị ghi đè theo chu kỳ, thiết bị đổi chủ, dữ liệu không còn nguyên vẹn… Nếu không được cơ quan tiến hành tố tụng lập biên bản, niêm phong kịp thời theo Điều 107 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, chuỗi bảo quản chứng cứ (chain of custody) sẽ bị đứt đoạn, làm suy yếu giá trị pháp lý của dữ liệu. Đây là nghịch lý bởi chứng cứ mạnh nhất lại dễ bị vô hiệu hóa chỉ vì thiếu một tờ giấy.

Đồng thời, sự khác biệt trong cách xử lý dẫn đến nguy cơ hình sự hóa hay phi hình sự hóa tùy tiện do cùng một hành vi chiếm đoạt COD, cơ quan công an tại địa bàn này có thể khởi tố hình sự nhưng nơi khác lại coi là tranh chấp dân sự. Điều này không chỉ làm suy giảm tính tiên liệu của pháp luật mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào sự thống nhất của hệ thống tư pháp.

Về pháp lý cách tiếp cận “trọng giấy, khinh số” này đi ngược với các quy định hiện hành. Bộ luật Tố tụng Hình sự đã công nhận dữ liệu điện tử là nguồn chứng cứ (Điều 87) và quy định rõ điều kiện để có giá trị chứng minh (Điều 99); Luật Giao dịch điện tử 2023 khẳng định dữ liệu điện tử có giá trị pháp lý như bản gốc hoặc văn bản giấy nếu đảm bảo tính toàn vẹn và khả năng truy cập; Luật Kế toán và Nghị định 123/2020/NĐ-CP thậm chí còn bắt buộc sử dụng chứng từ, hóa đơn điện tử trong nhiều hoạt động.

Trên phương diện chính sách, Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 xác định dữ liệu là trung tâm của chuyển đổi số; Quyết định 749/QĐ-TTg năm 2020 coi logistics là một trong tám lĩnh vực ưu tiên số hóa; Đề án 06 của Chính phủ đặt mục tiêu cắt giảm tối đa giấy tờ truyền thống trong quản lý và giao dịch. Rõ ràng pháp luật và chủ trương đã mở đường nhưng thực tiễn áp dụng ở cơ sở lại dừng lại ở tập quán giấy tờ tạo thành điểm nghẽn kéo lùi cả hệ thống.

Không dừng lại ở khía cạnh pháp lý, tình trạng này còn tạo ra những hệ quả kinh tế xã hội đáng lo ngại. Khi cơ quan chức năng không kịp thời xử lý hình sự, doanh nghiệp buộc phải chuyển sang khởi kiện dân sự tại Tòa án bắt đầu một con đường kéo dài, tốn kém, khó thu hồi tiền và bỏ lọt tội phạm. Nợ xấu gia tăng, chi phí quản trị rủi ro cao hơn nhiều doanh nghiệp phải cân nhắc thu hẹp dịch vụ giao hàng có COD, ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng vốn quen thanh toán khi nhận hàng.

Nguy hiểm hơn sự chậm trễ trong áp dụng còn tạo ra tâm lý “nhờn luật” khi shipper biết rõ cơ quan công an khó khởi tố nếu thiếu giấy từ đó mạnh dạn chiếm đoạt, trốn tránh nghĩa vụ. Đây chính là một dạng moral hazard làm suy yếu hiệu quả răn đe của pháp luật hình sự.

Ở tầm vĩ mô khoảng trống áp dụng này làm suy giảm động lực đầu tư vào hạ tầng số. Các doanh nghiệp đã bỏ chi phí lớn xây dựng hệ thống audit log, chữ ký số, camera, công nghệ chống chỉnh sửa dữ liệu nhưng nếu kết quả cuối cùng vẫn không được công nhận trong tố tụng thì mọi nỗ lực đầu tư trở nên vô nghĩa. Điều này cản trở tiến trình chuyển đổi số quốc gia trong khi nền kinh tế số lại đòi hỏi sự tin cậy tuyệt đối vào dữ liệu.

So với quốc tế Việt Nam đang chậm nhịp ở khâu thực thi. Singapore đã sửa đổi Đạo luật Chứng cứ từ năm 2012 khi công nhận chứng cứ điện tử ngang hàng với giấy tờ truyền thống và chỉ xem xét tính toàn vẹn, khả năng truy xuất. Liên minh châu Âu ban hành Quy định eIDAS để thừa nhận dữ liệu điện tử kèm chữ ký số, dấu thời gian có giá trị như văn bản gốc, áp dụng rộng rãi trong thương mại và tố tụng. Trung Quốc từ năm 2012 đã đưa dữ liệu điện tử vào Bộ luật Tố tụng dân sự, các Tòa án thường xuyên sử dụng log hệ thống, giao dịch điện tử trong xét xử tranh chấp thương mại.

Những kinh nghiệm này cho thấy việc công nhận dữ liệu điện tử không chỉ là xu hướng mà đã trở thành chuẩn mực pháp lý quốc tế. So với các nước thì Việt Nam không thiếu khung pháp lý nhưng lại vướng ở tư duy áp dụng khiến dữ liệu số chưa phát huy trọn vẹn giá trị trong tố tụng hình sự và dân sự.

Tất cả những điều trên cho thấy đây không phải là vướng mắc thủ tục nhỏ lẻ mà là một điểm nghẽn thể chế nghiêm trọng. Nó tạo khoảng trống để tội phạm lợi dụng làm tăng chi phí xã hội, bào mòn niềm tin vào pháp luật, kéo lùi mục tiêu Chính phủ số, kinh tế số xã hội số và khiến Việt Nam đứng trước nguy cơ tụt lại so với các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Nếu không có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, tình trạng này sẽ tiếp tục kéo dài và gây tổn hại lớn cả về pháp lý, kinh tế lẫn xã hội.

Giải pháp và kiến nghị

Để khắc phục điểm nghẽn “trọng giấy, khinh số” và đưa dữ liệu điện tử thực sự trở thành căn cứ pháp lý vững chắc trong tố tụng, tác giải cho rằng cần triển khai đồng bộ một số giải pháp sau.

Thứ nhất, ban hành khung pháp lý thống nhất.

Cần sớm có thông tư liên tịch giữa Bộ Công an, VKSND Tối cao và TAND Tối cao hướng dẫn chi tiết việc tiếp nhận, thu thập, bảo quản, giám định và đánh giá dữ liệu điện tử. Văn bản này phải quy định rõ tiêu chí tối thiểu để dữ liệu được coi là chứng cứ: tTính toàn vẹn, tính xác thực, xác định được người khởi tạo, đảm bảo chuỗi bảo quản theo Điều 99 và Điều 107 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Quan trọng hơn cần khẳng định không đặt điều kiện kèm bản giấy khi dữ liệu số đã đáp ứng chuẩn theo Luật Giao dịch điện tử 2023.

Thứ hai, chuẩn hóa quy trình tiếp nhận tại cơ quan tố tụng.

Ngay khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, cơ quan tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận dữ liệu điện tử, sao lưu, tạo mã, niêm phong vật chứa và ghi nhận đầy đủ người giao, người nhận, thời điểm. Nếu dữ liệu nằm trên hệ thống cần cho phép trích xuất có giám sát, lập biên bản kèm log thao tác. Đây là cách khóa giá trị chứng cứ ngay từ đầu tránh mất mát hoặc hao hụt do chậm trễ.

Thứ ba, đặt ra chuẩn kỹ thuật tối thiểu cho doanh nghiệp.

Doanh nghiệp logistics cần xây dựng hệ thống dữ liệu có timestamp chuẩn, mã định danh shipper/thiết bị/ca làm, lưu vết chỉnh sửa (audit log), ký số khi xuất dữ liệu, kèm cơ chế đối chiếu chéo như POD, camera bưu cục, sao kê nộp tiền. Dữ liệu phải được lưu trữ, sao lưu và phân quyền chặt chẽ với thời hạn đủ dài để phục vụ tố tụng. Việc ban hành mẫu biên bản trích xuất, chứng thư kỹ thuật thống nhất sẽ giúp cơ quan tố tụng dễ dàng sử dụng.

Thứ tư, ưu tiên giám định dữ liệu thay vì đòi giấy tờ.

Theo Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử phụ thuộc vào cách khởi tạo, lưu trữ, bảo đảm toàn vẹn và định danh người khởi tạo. Khi có nghi ngờ, giải pháp đúng là giám định kỹ thuật, kiểm tra tính toàn vẹn file, nguồn gốc thiết bị, đối chiếu log, GPS, IP và thời gian chứ không phải yêu cầu doanh nghiệp in ra giấy.

Thứ năm, nâng cao năng lực cơ quan tiến hành tố tụng.

Cơ quan Công an các địa phương cần có chuyên trách về chứng cứ điện tử, được trang bị công cụ pháp y số và có cơ chế phối hợp trực tiếp với doanh nghiệp cung cấp dữ liệu. Cần công khai chỉ tiêu như thời gian tiếp nhận tin báo, tỷ lệ hồ sơ phải yêu cầu bổ sung, tỷ lệ giám định thành công. Đồng thời tổ chức tập huấn định kỳ cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán về tiếp nhận, thẩm tra, giám định và đánh giá dữ liệu điện tử, đưa kỹ năng số vào tiêu chí thi đua, nhằm thay đổi thói quen nghiệp vụ vốn nặng về giấy tờ.

Thứ sáu, gắn giải pháp với lộ trình chuyển đổi số quốc gia.

Các quy trình trên phải ràng buộc với mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW, Quyết định 749/QĐ-TTg và chương trình liên thông dữ liệu quốc gia. Trong khi chờ khung pháp lý đầy đủ có thể áp dụng biện pháp quá độ: tạm thời chấp nhận bản in từ hệ thống kèm chữ ký số và chứng thư kỹ thuật của doanh nghiệp để tiếp nhận tố giác, song song tiến hành giám định khi cần. Đồng thời, những cơ quan không hoàn thành chỉ tiêu về tiếp nhận và xử lý dữ liệu điện tử cần được đánh giá không đạt mục tiêu chuyển đổi số. Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy việc này hoàn toàn khả thi. Singapore đã xây dựng hệ thống eLitigation cho phép nộp và xử lý hồ sơ tố tụng điện tử toàn trình, trong đó dữ liệu điện tử được coi là chứng cứ gốc. Liên minh châu Âu ban hành Quy định eIDAS công nhận dữ liệu điện tử có chữ ký số và dấu thời gian như văn bản gốc, áp dụng rộng rãi trong cả thương mại và xét xử.

Trung Quốc đưa dữ liệu điện tử vào Bộ luật Tố tụng dân sự từ năm 2012, các tòa án đã quen với việc xét xử dựa trên log hệ thống, dữ liệu ứng dụng, giao dịch điện tử. So sánh đó cho thấy Việt Nam không thiếu nền tảng pháp lý, điều cần là quyết tâm áp dụng đồng bộ để tránh tụt hậu. Khi việc tiếp nhận, giám định và đánh giá dữ liệu điện tử được chuẩn hóa và bắt buộc thực thi, pháp luật hiện hành mới thực sự đi vào đời sống, bảo vệ doanh nghiệp, giảm thiểu thất thoát và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực logistics.

Lời kết

Những vướng mắc trong việc tiếp nhận và xử lý dữ liệu điện tử hiện nay không còn là chuyện kỹ thuật đơn thuần mà đã trở thành một điểm nghẽn thể chế nghiêm trọng. Pháp luật đã có, chủ trương đã rõ, doanh nghiệp đã đầu tư nhưng khâu áp dụng thực tiễn lại bị kìm giữ bởi tư duy “trọng giấy, khinh số”. Nếu không tháo gỡ kịp thời, tình trạng này sẽ tiếp tục tạo khoảng trống cho tội phạm lợi dụng, làm gia tăng chi phí xã hội, bào mòn niềm tin của doanh nghiệp vào pháp luật, đồng thời kéo lùi tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

Đã đến lúc cần coi việc tiếp nhận và xử lý dữ liệu điện tử như một yêu cầu cấp thiết của Nhà nước pháp quyền trong thời đại số chứ không phải một sự lựa chọn mang tính thí điểm. Nếu giải pháp đồng bộ được triển khai từ khung pháp lý thống nhất, quy trình tiếp nhận chuẩn hóa, chuẩn kỹ thuật dữ liệu doanh nghiệp, năng lực giám định, đào tạo cán bộ cho đến cơ chế phối hợp một cửa thì dữ liệu điện tử sẽ thực sự trở thành lá chắn pháp lý bảo vệ doanh nghiệp và người tiêu dùng. Ngược lại nếu sự lúng túng kéo dài, nguy cơ “nhờn luật” trong các vụ chiếm đoạt COD sẽ ngày càng lớn kéo theo thiệt hại không chỉ cho ngành logistics mà còn cho toàn bộ môi trường kinh doanh số của đất nước.

Do đó việc đặt dữ liệu điện tử đúng vị trí của nó như một căn cứ pháp lý vững chắc có giá trị tương đương hoặc thậm chí cao hơn giấy tờ truyền thống chính là bước đi tất yếu để hiện thực hóa mục tiêu Chính phủ số, kinh tế số xã hội số mà Đảng và Nhà nước đã đề ra đồng thời đưa Việt Nam bắt kịp chuẩn mực pháp lý quốc tế.

                                                                                       Thạc sĩ, Luật sư HOÀNG HÀ

                                                                                   Công ty Luật TNHH MTV Thiên Quý,

                                                                                       Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh.