Một số vướng mắc, bất cập về tổng hợp hình phạt và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

(LSVN) – Tổng hợp hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng của Tòa án. Đây là một chế định pháp lý bảo đảm tính công bằng xã hội, thể hiện nguyên tắc trừng trị trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với người phạm tội. Trải qua quá trình lập pháp và hoàn thiện pháp luật về hình sự, Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã có nhiều quy định mới cho thấy sự tiến bộ về kỹ năng lập pháp và việc bắt kịp xu thế chung của pháp luật hình sự các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định về tổng hợp hình phạt tại các Tòa án hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập.

Cụ thể, thứ nhất, pháp luật hình sự hiện nay chưa quy định thẩm quyền tổng hợp hình phạt trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà trong đó có bản án của Tòa án nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận, có bản án của Tòa án Việt Nam.

Theo quy định của khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) và tại Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn các trường hợp tổng hợp hình phạt theo khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025). Tuy nhiên, chưa quy định trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà trong đó có bản án của Tòa án nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận, có bản án của Tòa án Việt Nam thì quyết định của các bản án đó được tổng hợp như thế nào.

Đây là một thiếu sót lớn bởi trong thực tế có trường hợp công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài phạm tội ở nước khác, đã bị Tòa án nước ngoài xét xử, bản án được Toà án Việt Nam công nhận sau đó tiếp tục bị xét xử ở Việt Nam.

Ví dụ: Điều 500, 501 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) quy định về trường hợp thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước ngoài đối với công dân Việt Nam bị từ chối dẫn độ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Thứ hai, vướng mắc về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được Tòa án cho hưởng án treo, nhưng bản án treo chưa có hiệu lực pháp luật lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này.

Theo quy định tại Điều 7 Nghị quyết số 01/2022/NQ- HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) về án treo quy định: “Trường hợp người đang được hưởng án treo mà lại phát hiện trước khi được hưởng án treo họ đã thực hiện một tội phạm khác thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không tổng hợp hình phạt với bản án cho hưởng án treo. Trong trường hợp này, người phạm tội phải đồng thời chấp hành 02 bản án và việc thi hành án do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự”.

Tuy nhiên, nội dung hướng dẫn “người phạm tội phải đồng thời chấp hành 02 bản án và việc thi hành án do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự” là không khả thi bởi lẽ Luật Thi hành án hình sự hiện hành thì hiện nay chưa có quy định về hướng dẫn nêu trên.

Ngoài ra, nếu hình phạt áp dụng đối với tội phạm được thực hiện trước khi được hưởng án treo là tù giam, tù chung thân thì không thể cho người bị kết án hoãn chấp hành hình phạt tù giam hoặc tù chung thân để thi hành án treo xong mới thi hành. Còn nếu thi hành hình phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân thì không thể nói rằng người đó sẽ đương nhiên được chấp hành án treo trong trại giam. Trường hợp nếu thi hành án treo xong mới thi hành án phạt tù. Vấn đề này lại không phù hợp với quy định của Luật hình sự và tố tụng hình sự về việc thi hành bản án có hiệu lực (Điều 364 BLTTHS). Còn nếu thi hành hình phạt tù có thời hạn đồng thời với bản án đang được hưởng án treo thì được xem là người bị kết án đang đồng thời chấp hành hình phạt của hai bản án.

Thứ ba, việc tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội trong trường hợp người đó phạm nhiều tội trước khi đủ 16 tuổi và có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi thì việc tổng hợp hình phạt khi có nhiều bản án hiện còn cách hiểu khác nhau.

Ví dụ, A. lúc 15 tuổi 06 tháng bị tuyên phạt về tội “Cướp tài sản” với mức hình phạt bị áp dụng là 08 năm tù và tội “Cướp giật tài sản” với mức hình phạt là 05 năm tù, tổng hợp hình phạt đối với A là 12 năm tù. Đến năm 17 tuổi A lại phạm tội mới khi đang chấp hành hình phạt tù, cụ thể tội “Cố ý gây thương tích” với mức hình phạt 04 năm tù. Vậy tổng hợp hình phạt đối với A. được xác định như thế nào?  

Theo quan điểm của tác giả, hiện nay, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định Điều 104 Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) có tính chất dẫn chiếu, do đó đã dẫn đến cách hiểu không thống nhất, gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Và từ đó có thể ảnh hưởng đến vấn đề quyết định tổng hợp hình phạt đối với người phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án.

Từ những vướng mắc trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, cần bổ sung quy định về trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật mà trong đó có bản án của Tòa án nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận, có bản án của Tòa án Việt Nam.

Tác giả đề xuất bổ sung khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) như sau: “Trường hợp trong số bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của Tòa án nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận, có bản án là của Tòa án Việt Nam, thì Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao ra quyết định tổng hợp hình phạt”.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) như sau:

“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này hoặc thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này”.

Thứ ba, cần quy định cụ thể nội dung của Điều 104 BLHS về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, theo hướng:

Điều 104. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (sửa đổi):

Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này thì căn cứ theo loại và mức hình phạt trong các tội đã phạm ở độ tuổi khác nhau để tổng hợp hình phạt theo quy định của Điều 103 của Bộ luật này.

Ngoài ra, trong thời gian tới, các cơ quan lập pháp, nhất là Tòa án nhân dân Tối cao cần tăng cường việc hướng dẫn, giải thích áp dụng thống nhất quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án. Đây là hoạt động rất cần thiết để việc thống nhất áp dụng pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của toàn ngành Tòa án nhân dân.

                                                                           Thạc sĩ NGUYỄN THỊ MAI – VŨ TIẾN THỌ

                                                                                  Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội